Đình Mõ (xã Hậu Thành)
Đình Mõ được nhân dân xây dựng trên đất có tên
gọi là Kẻ Mõ, nay là làng Đức Hậu, xã Hậu Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An,
để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa của dân làng, nên nhân dân thường gọi
là đình Mõ.
Địa danh di tích qua các triều đại phong kiến
đến nay có thay đổi nhưng tên gọi và địa điểm xây dựng vẫn không thay đổi, cụ
thể là:
- Thời Nguyễn, Đình Mõ thuộc địa phận xã làng
Đức Hậu, xã Giai Lạc, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, trấn Nghệ An.
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Giai Lạc
được chia thành 03 xã Phúc Thành, Hậu Thành và Đồng Thành, Đình Mõ thuộc xã Hậu
Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Từ thành phố Vinh, theo hướng Vinh - Hà Nội, du
khách đi theo Quốc lộ 1A, đến ngã ba Cầu Bùng, huyện Diễn Châu thì sẽ rẽ tay
trái đi theo đường tỉnh lộ 538, đến km 12, thuộc Thị trấn Yên Thành, du khách
tiếp tục rẽ tay phải theo đường huyện lộ liên xã qua xã Văn Thành và Phúc Thành
là đến xã Hậu Thành và là địa điểm của di tích.
* Nhân vật - sự kiện:
Đình Mõ được xây dựng từ những năm 1675 dưới
triều vua Lê Gia Tông với 3 gian nhà tranh thờ thần Cao Sơn - Cao Các;
"Thượng tướng quân, dực bảo trung hưng linh phù gia tăng thượng đẳng
thần" Phan Ngọc Đệ; "Công đức huyền trí dực bảo trung hưng, trung
đẳng tôn thần" Nguyễn Hữu Chỉ. Đến năm 1884, đình được nâng cấp thành 3
tòa nhà bằng gỗ, gồm Hạ điện, Trung điện và Thượng điện. Trong phong trào Cần
Vương chống thực dân Pháp, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã,
Đình Mõ đã được chọn làm đại bản doanh và trung tâm hoạt động của nghĩa quân.
Nguyễn Xuân Ôn là một thủ lĩnh trong phong trào Cần vương, ông sinh ngày 23
tháng 3 năm Ất Dậu, tức ngày 10 tháng 5 năm 1825, tại làng Quần Phương, xã
Lương Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông Thành - nay thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến sỹ năm 1871, ra làm quan cho nhà Nguyễn dưới triều
Tự Đức. Ông là một vị quan công bằng, thẳng thắn, yêu nước, thương dân. Trong
lúc làm quan cho nhà Nguyễn ông đã nhiều lần dâng sớ phản đối chủ trương nghị
hòa và trình bày những phương thức chọn lựa người hiền tài, chấn chỉnh võ sĩ,
lập đồn điền, khuyến khích việc cày cấy, bớt chi tiêu xa xỉ... nhưng bị triều
đình làm ngơ và bị cách chức nên ông đã xin về quê tập hợp quần chúng khởi
nghĩa chống thực dân Pháp. Ông và Lê Doãn Nhã là linh hồn của phong trào Cần
Vương chống Pháp ở các huyện phía Bắc Nghệ Tĩnh, ông chọn Yên Thành làm căn cứ
địa và được nhân dân Yên Thành hưởng ứng và hết lòng ủng hộ. Ông mất năm 1889,
thọ 64 tuổi.
Bài vị của ông được thờ trong nhiều di tích trên
địa bàn huyện Yên Thành. Tại thành phố Vinh, ở địa phận phường Hưng Bình, có
một con đường dài 917m mang tên Nguyễn Xuân Ôn. Và tại huyện Diễn Châu, tỉnh
Nghệ An cũng có một ngôi đền thờ ông và một ngôi trường mang tên ông - Trường
THPT Nguyễn Xuân Ôn.
Trong phong trào Cần Vương, ngoài cụ Nguyễn Xuân
Ôn còn có cụ Phó bảng Lê Doãn Nhã, người bạn đồng hương, một cộng tác đắc lực
của Nguyễn Xuân Ôn trong cuộc khởi nghĩa.
Lê Doãn Nhã sinh năm 1837 tại làng Tràng Sơn, xã
Quan Trường, tổng Quan Trung, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đậu Phó bảng trong
kì thi Hội năm 1871 cùng với Nguyễn Xuân Ôn và được triều đình nhà Nguyễn bố
trí làm quan ở Hải Dương, Huế, sau đó về làm Sơn phòng sứ ở Nghệ An. Lê Doãn
Nhã nổi tiếng là vị quan có tài, liêm khiết và là người biết thương dân, luôn
giúp đỡ dân nghèo như bỏ kiến, bớt gạo cứu dân, giảm bớt sưu thuế cho nhân
dân... và được nhân dân ca ngợi hết lòng. Với lòng căm thù giặc Pháp cao độ,
hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông đã cùng một số nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa, là
Phó tướng cho Nguyễn Xuân Ôn, nghĩa quân của ông đã tổ chức đánh Pháp ở vùng
bắc sông Lam từ năm 1885 đến năm 1887. Trong trận đánh tại làng Đồng Nhân, khi
chủ tướng Nguyễn Xuân Ôn bị thương, ông vẫn tiếp tục chỉ huy chiến đấu. Năm
1888, ông bị thực dân Pháp bắt và bị sát hại. Khi ông hi sinh, con cháu và nhân
dân thương tiếc và lập đền thờ ông trên nền nhà cũ của bố mẹ ông trong dòng họ
Lê thuộc làng Tràng Sơn - xã Sơn Thành ngày nay. Từ đó, nhân dân thường gọi là
Đền thờ Lê Doãn Nhã. Hiện nay, ở xã Sơn Thành cũng có một ngôi trường mang tên
ông đó là trường THPT Lê Doãn Nhã.
Năm 1887, thực dân Pháp đánh vào làng, mở cuộc
tiến công đại bản doanh của nghĩa quân nên Đình Mõ đã bị thiêu rụi thành tro
bụi. Mãi đến năm 1912, làng Đức Hậu mới huy động bà con đóng góp sức người, sức
của để xây dựng lại đình. Ngày 26 tháng 3 năm 1913, ngôi đình mới được hoàn
thành và tồn tại đến ngày nay.
Năm 1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch
"Diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm", đình Mõ đã mở lớp bình dân
học vụ đầu tiên trong vùng.
Bên cạnh đó, đình Mõ còn là nơi sinh hoạt văn
hóa tâm linh như cầu phúc, cầu tài, cầu yên của địa phương. Hàng năm, đình Mõ
tổ chức 2 kỳ lễ tế, đó là lễ Tiểu Điển 15 tháng 3 và Đại Điển 15 tháng 11. Lễ
tế được diễn ra với các nghi thức: Ngày 14 tháng 11 là ngày phụng nghinh, bài
vị của các vị thần được rước rất uy nghi, đi đầu là hàng cờ xéo, tiếp đến là
kiệu sơn son thếp vàng, lọng che trên đặt bài vị các vị thần được thờ tại đình
Mõ, đi hai bên là hai hàng người mặc áo đỏ, tiếp đến là vị tế chủ đội mũ cánh
chuồn, đi hia mặc áo thụng the, chiêng trống xập xình theo nhịp bước, sau cùng
là dân làng.
Sau khi các vị thần được an tọa theo ngôi thứ,
tối 14 tháng 11 tổ chức lễ yết, ngày 15 tháng 11 là ngày chính tế, hầu hết
trong làng đều làm cỗ tam sinh đem ra đình cúng. Trong những ngày này, làng còn
tổ chức các trò chơi như chọi gà, đánh đu, đánh vật, cờ người...
* Khảo tả:
Đình Mõ được những người xây dựng chọn một địa
hình tốt, một vị thế có thể nói là đẹp về mọi mặt. Mặt đình quay về hướng , lưng dựa vào
núi, trước mặt là dòng suối đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Xưa, vùng
đất này là một rừng cây rậm rạp, có nhiều khe suối như dòng khe Lân từ trên cao
đổ xuống tụ lại trước cổng đình tạo thành một vùng khí thiêng. Núi Tháp Sơn tuy
không cao nhưng nổi tiếng trong vùng, núi có nhiều loài cây cổ thụ như lim, gõ,
chò chỉ xen lẫn các lùm tre, trúc, thảo mộc... Núi cũng là môi trường sinh sống
tốt cho các loài chim như cò, diệc, các loài động vật khác... Trải qua hàng
trăm năm cùng nhiều biến cố lịch sử, rừng cây cổ thụ vẫn còn, nhà nước đã có dự
án đầu tư bảo tồn rừng nguyên sinh trên núi Tháp.
Toàn bộ di tích đình Mõ được bố trí trong khuôn
viên rộng 4294m2, gồm các công trình kiến trúc là nhà Bái đường, nhà Hậu cung,
nhà Tả vu và Hữu vu.
Nhà Bái đường có chiều dài là 15,6m, chiều rộng
là 7,9m, mái lợp ngói âm dương. Trên bờ giải và bờ nóc đắp phù điêu hình lưỡng
long chầu nguyệt - một hình ảnh quen thuộc được trang trí trong các di tích. Ở
giữa là mặt trăng đang tỏa sáng, hai bên là hai con rồng có đầy đủ dầu, thân,
đuôi đang quay về phía mặt trăng. Ở đầu nóc và các đầu đao được đắp 4 con nghê
trong tư thế chầu, đầu ngẩng cao như lao về phía trước. Nhà được làm chủ yếu
bằng gỗ lim, gồm có 3 gian, 2 hồi, 6 vì, trong đó có 4 vì chính và 2 vì hồi, 8
cột cái cao 3,9m với đường kính 38cm, 16 cột quân cao 2,8m có đường kính 35cm.
Hệ thống cột nâng đỡ phần mái và các bộ phận khác của nhà. Các cột được đặt
trên các tảng đá xanh hình vuông có kích thước 550cm x 550cm, cao 7cm. Hai bên
đầu hồi có 2 cửa sổ chớp, mặt trước có 14 cánh cửa và 1 cửa nách, cửa đóng trên
chớp dưới pano, thềm nhà lát gạch Cẩm Trang.
Tòa Bái đường kết cấu theo kiểu tam oai, với kỹ
thuật lắp ghép mộng truyền thống và hệ thống hàng cột dọc ngang như vậy đã làm
cho nhà Bái đường thêm vững chắc và thoáng đãng. Tài năng, trí tuệ của các nghệ
nhân được thể hiện rõ nét trong nghệ thuật chạm khắc bong kênh 2 mặt trên từng
bộ phận cấu trúc chính như xà, nghé, kẻ, đấu. Tại đây các nghệ nhân xưa đã tận
dụng toàn bộ mặt phẳng để tạo nên những tác phẩm điêu khắc có giá trị thẩm mỹ
cao với các đề tài trang trí truyền thống mang đậm nét dân gian như tứ linh, tứ
quý và hình dơi. Các mảng đề tài được thể hiện một cách tỷ mỷ, sinh động và
được bố trí một cách đăng đối, các đường nét chạm khắc vừa khỏe khoắn, vừa mềm
mại, uyển chuyển. Đặc biệt là trên xà nách mặt trước và mặt sau chạm hình con
dơi với tư thế xòe cánh đang bám vào thân kẻ, nó làm tăng thêm sức hấp dẫn,
sống động. Dơi trong quan niệm dân gian được xem là biểu tượng cho sự tốt lành
và may mắn. Ngoài ra, nghệ thuật điêu khắc ấy còn được thể hiện rõ nét trên các
kẻ, mỗi kẻ trang trí một đề tài, một nội dung khác nhau. Trên kẻ vì một trang
trí long, ly, quy, phượng; trên kẻ vì 2 trang trí lưỡng long chầu nguyệt; trên
vì 3 trang trí long, ly, quy, phượng, phượng hàm thư, rồng chầu phượng múa;
trên kẻ vì 4 chạm rùa nấp bóng hồ sen và hoa lá cách điệu.
Về bài trí nội thất, gian giữa nhà Bái đường đặt
1 hương án sơn son thếp vàng. Trên hương án đặt: 2 mâm chè, một mâm kích thước
59cm x 34cm x18cm, mâm còn lại kích thước là 34cm x 20cm x 18cm; 1 bát hương
bằng sứ; 2 nạm rượu bằng sứ; 2 cọc nến, 2 bình hoa. Phía trước hương án đặt một
lư hương lớn đúc bằng xi măng, vôi vữa đặt trên một bệ cao 60cm. Trên xà thượng
gian giữa khắc năm xây dựng đình là năm 1912 - năm Quý Sửu và bên dưới treo một
bức đại tự ghi dòng chữ "Đức lưu quang" - nghĩa là “Đức lưu truyền
mãi mãi”, bên dưới bức đại tự là bức cửa võng bằng vải thêu rồng và dòng chữ
"Thánh cung vạn tuế" - nghĩa là “Cung phụng thần thánh muôn đời”.
Hai gian bên phải được bài trí đơn giản. Gian
bên trái đặt trống chiêng, gian phải đặt giá bát bửu.
Từ nhà Bái đường sang nhà Hậu cung du khách phải
đi qua một một khoảng sân lộ thiên có chiều dài là 10,8m và chiều rộng là 2m,
được láng bằng xi măng có một đường rảnh để thoát nước mỗi khi có mưa. Nhà Hậu
cung xây tường bít đốc, bờ giải thẳng, bờ nóc trang trí lưỡng long chầu nguyệt
uy nghi, mái lợp ngói âm dương, trước nhà có 2 cột hiên với hai câu đối bằng
chữ Hán màu đen. Câu đối mặt trước là:
“Lân khê thủy tú thiên thu tại
Tháp linh thanh sơn vạn đại như".
Nghĩa là:
“Dòng nước đẹp ngàn năm vẫn thế
Cây xanh núi Tháp nghìn năm vẫn linh thiêng”.
Câu đối mặt trong là:
"Phúc giáng đại đình giai thụ phú
Dân quy đức hậu lạc đồng dân".
Nghĩa là:
“Phúc lớn giáng xuống đình mọi người dân đều
được hưởng
Dân quy tụ về đình mọi người đều chung vui”.
Nhà Hậu cung có 3 gian 4 vì kèo, nền nhà lát
gạch cẩm trang, khung làm bằng gỗ lim. Cửa nhà Hậu cung có 9 cánh bằng gỗ de
sơn đỏ, các đầu kẻ phía trước và phía sau chạm khắc đơn giản hơn nhà bái đường
với các đề tài trang trí là rồng vờn và hoa lá cách điệu. Kết cấu vì kèo theo
kiểu thượng xông, hạ kẻ và có 8 cột, 4 cột trụ.
Gian giữa nhà Hậu cung đặt 1 bàn thờ được sơn
đỏ, mặt trước trang trí hổ phù, rồng chầu và hoa lá cách điệu. Bàn thờ gồm 3
cấp, cấp 1 có chiều rộng là 2,4m, chiều dài là 75cm, chiều cao là 1,4m. Giữa
bàn thờ là một long ngai đặt bài vị thờ thần Cao Sơn - Cao Các - những vị thần
có công với nước với dân.
Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn tên thật là Cao
Hiển. Ông sinh ngày 20 tháng 8 năm Bính Ngọ tại Quảng Tây, Trung Quốc. Từ nhỏ,
ông đã nổi tiếng thông minh, thuộc làu kinh sử. Năm 15 tuổi, mồ côi cha mẹ. Năm
22 tuổi niên hiệu Tống Hưng Ninh đỗ tiến sĩ, được vua Tống tặng thưởng và giữ
lại triều đình làm Thừa tướng. Năm 30 tuổi, ông được phong làm Thừa tướng kiêm
Nguyên soái Đại tướng quân và được triều đình cử sang quan Án sứ nước . Ông nhận
chức ở trấn Nghệ An. Trên đường đi ngang qua trang Phúc Bội, huyện Lương Giang,
có xứ Bến Tiên, thấy thế đất ở núi Đại Liễu tốt, ông liền cho lập cung đài gọi
là Bến Tiền. Từ đấy, mỗi khi dân có bệnh tật đến đó làm lễ đều khỏi bệnh. Ông
mất năm 103 tuổi, mộ táng tại núi Đại Liễu. Cao Sơn là một vị quan có lòng
khoan dung độ lượng, hết lòng giúp dân chữa bệnh, lao động sản xuất. Sau khi
ông mất, vua Tống phong làm An Nam Quốc Vương và giao cho nhân dân An Nam lập
đền thờ ông (Từ điển văn hóa - nxb Văn hóa xã hội).
Trong các đình, đền, chùa, thần Cao Sơn luôn
được thờ cùng thần Cao Các. Cao Các là người làng Cao Xá, huyện Thọ Xuân, phủ
Thanh Đô. Ông sinh ngày 6 tháng 1 năm 938. Mẹ là Lê Thị Điềm, bố là Cao Trạch.
Cao Các thông minh và có sức khỏe phi thường, dung mạo lại hơn người nên được
mọi người trong làng gọi là “thần đồng”. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước
hỗn loạn, sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân, Cao Các đã quyết tâm đi gặp Đinh Bộ
Lĩnh xin đi đánh giặc. Vua thấy ông có tư chất thông minh, chính trực, giỏi võ
nghệ nên đã phong chức Giám nghị đại phu và giao cho đi dẹp loạn. Với tài thao
lược và dùng binh, ông đã góp công lớn trong việc giúp vua Đinh dẹp yên được
loạn 12 sứ quân, thu non sông về một mối.
Năm 968, sau khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, Cao Các
được giao trấn thủ vùng đất An Ninh. Ông thấy đây có phong cảnh hữu tình, dân
cư ôn hòa nên ông quyết định cho quân sĩ lập quân. Tại đây, ông tăng cường tổ
chức học tập luyện võ nghệ cho binh sĩ, vùa tăng cường công tác phòng thủ vừa
hướng dẫn cho nhân dân trồng trọt, chăn nuôi, chữa bệnh cho dân nghèo và tập
luyện võ nghệ cho binh sĩ, giúp triều đình bảo vệ đất nước.
Khi giặc Chiêm Thành đem quân sang quấy nhiễu
vùng biên cương nước ta, 1 lần nữa, vua Đinh lại triệu Cao Các về triều và giao
cho ông thống lĩnh 5 vạn tinh binh đi đánh giặc. Cao Các đã giành thắng lợi vẻ
vang, đánh đuổi được quân giặc ra khỏi bờ cõi. Ghi nhận công lao của ông, vua
Đinh đã phong thưởng và giữ lại làm quan nhưng ông đã xin về quê sống cuộc sống
an nhàn ở vùng đất An Ninh cho đến khi qua đời. Sau khi ông mất, triều đình nhà
Đinh đã cho lập miếu thờ. Đến đời vua Lý Thái Tổ, ông được truy phong “Mĩ hiệu
Đại vương”. Các triều tiếp theo gia phong cho ông là “Thượng thượng đẳng tối
linh tôn thần”.
Bàn thờ cấp thứ 2 có chiều dài là 2,4m, chiều
rộng là 1,6m, chiều cao là 1,05m. Trên bàn thờ đặt bản chúc văn trang trí hình
cá chép hóa rồng. Hai bên chúc văn đặt 2 bình sứ cổ dùng để ủ rượu dùng cho
ngày tế lễ. Cấp thứ 3, cấp thấp nhất có kích thước là 2m x 1,6m x 90cm. Trên
bàn thờ đặt 1 mâm chè, phía trước đặt 1 lư hương bằng đồng, hai bên là 2 cọc
sáp sơn đỏ. Trên xà hạ của gian giữa Hậu cung treo 1 bức đại tự bằng gỗ sơn son
thếp vàng và được viết 3 chữ Hán "Đức quy dân" với ý là “phải quay về
với cái đức”.
Gian bên phải đặt 1 bàn thờ 2 cấp bằng gỗ lim,
xung quanh được sơn đỏ, mặt trên sơn màu đen, phía sau tường vẽ bức cửa võng
viết 3 chữ Hán lớn theo kiểu chữ chân phương "Kính như tại" - nghĩa
là “Tôn kính như khi còn sống”. Bàn thờ cấp 1 đặt long ngai bài vị Thượng tướng
quân Phan Ngọc Đệ.
Theo Cia phả họ Phan tại làng Đức Hậu, xã Hậu
Thành thì ông Phan Ngọc Đệ sinh năm 1477, tại làng Đức Tân, xã Giai Lạc, tổng
Quan Hóa, Trấn Nghệ An, nay là làng Đức hậu, xã Hậu Thành, huyện Yên Thành. Cha
ông là Phan Phúc Lân, làm thầy thuốc và thầy địa lý. Thuở nhỏ, ông đã là một
người thông minh và cương trực. Năm 25 tuổi thi đậu Cử nhân. Sinh ra và lớn lên
giữa lúc nhà Lê suy yếu, nhiều quan lại vì lợi ích cá nhân đã phân chia bè phái
chống lại triều đình. Nhân cơ hội ấy, Mạc Đăng Dung đã dựa vào một số quan
tướng lật đổ nhà Lê lập ra nhà Mạc. Để bảo vệ uy quyền của vương triều, nhà Lê
đã huy động lực lượng trong nước để đánh dẹp nhà Mạc. Do có sức khỏe và giỏi
văn võ nên Phan Ngọc Đệ đã xin đi lính, tham gia quân đội nhà Lê. Trong những
năm phục vụ triều đình, Phan Ngọc Đệ đã cùng vua nếm mật nằm gai trên chiến
trường Cao Bằng, Lạng Sơn... Khôn khéo và gan dạ lại tài giỏi võ nghệ, ông là
một trong những tướng tiên phong ngoài trận Mạc, lập nhiều chiến công. Đặc biệt
là trong trận đánh tại Cao Bằng do ông cầm quân đã thu được nhiều vũ khí và
quân lương của địch.
Do tuổi cao sức yếu, ông đã trở về quê sinh sống
và mất tại làng Đức Hậu. Để tưởng nhớ một võ quan có công dẹp loạn bảo vệ đất
nước, nhân dân làng Đức Hậu đã rước linh vị của ông về thờ tại đình Mõ. Do có
công lao lớn và được nhân dân làng Đức Hậu khai báo, Phan Ngọc Đệ đã được vua
Thành Thái năm thứ 15 phong sắc là: "Thượng tướng quân, dực bảo trung hưng
linh phù gia tăng thượng đẳng thần".
Trở lại với bàn thờ cấp 1 của gian phải, phía
trước long ngai đặt đài trản, 1 mâm cỗ bồng bằng sứ. Trên bàn thờ cấp 2 đặt 1
mâm chè bằng gỗ sơn đỏ. Phía trước mâm chè là bát hương bằng sứ.
Gian bên trái cũng đặt một bàn thờ 2 cấp. Cũng
như bàn thờ bên gian phải, bàn thờ bên gian trái được sơn đỏ xung quanh, mặt
bàn màu đen. Bàn thờ cấp 1 đặt long ngai bài vị của Nguyễn Hữu Chỉ. Phía trước
long ngai đặt 1 mâm cỗ bồng, đài trản và 1 bát hương.
Theo thần phả tại đình Mõ do lý trưởng Cửu Kiêm
sao lại năm Thành Thái - năm 1894, Nguyễn Hữu Chỉ người ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh
Thanh Hóa. Năm 1425, gặp lúc loạn lạc, vợ chồng ông vào Nghệ An ẩn náu. Mảnh
đất đầu tiên ông đặt chân đến là đất Kẻ Gỗ - nay là làng Ngọc Thành, xã Vĩnh
Thành, huyện Yên Thành. Năm 1428, ông cùng con trai thứ 6 là Nguyễn Hữu Bòi từ
Kẻ Lấu đến xứ Tháp Sơn khai phá đất đai chiêu dân lập làng. Xứ Tháp Sơn bấy giờ
là vùng đất cây cối um tùm, thành rừng, thành bãi, có khe, có suối. Bằng những
kiến thức đã học và kinh nghiệm thực tiễn, Nguyễn Hữu chỉ đã bắt đầu dựng lều,
lập trại chiêu dân. Ông bổ nhát cuốc đầy tiên khai phá rừng rậm và động viên
nhân dân khai hoang, phát rẫy, tạo tạo ra vùng canh tác. Ông đặt tên cho làng
là Đức Hậu. Chính vì vậy mà trong Gia phả họ Nguyễn ở làng Đức Hậu, xã Hậu
Thành còn để lại bài thơ:
"Kể từ khởi nghĩa Lam Sơn
Khai cơ lập nghiệp Tháp Sơn dẫn đầu
Dời chân từ chốn Mõ Lâu
Ra đi tìm kiếm đất màu khai sinh
Đến đây phong cảnh hữu tình
Cùng con thứ sáu gửi mình vào đây
Kết cùng Phan Ngọc tháng ngày
Chiêu dân, lập ấp, tháng ngày thêm vui".
Nguyễn Hữu Chỉ khi còn sống được nhân dân rất
kính trọng bởi tấm lòng đức độ của ông. Ông thường dạy con cháu rằng: "Ở
đời lấy việc thiện làm đầu, lấy trung kính làm gốc". Do tuổi cao sức yếu,
ông đã mất vì bệnh tật. Do có công với làng nên nhân dân tôn vinh ông là thần
khai khẩn và lập đền thờ ở chân núi Tháp, gần mộ táng ông để quanh năm hương
khói thờ phụng. Ông cũng được nhà vua phong sắc là "Công đức huyền trí dực
bảo trung hưng, trung đẳng tôn thần". Trải qua bao năm tháng chiến tranh
và mưa nắng, đền đã bị hư hỏng, năm 1913, sau khi đình Mõ xây dựng xong, nhân
dân làng Đức Hậu rước bài vị của ông về đình Mõ để thờ vọng cùng các vị thần
của làng.
Trên bàn thờ cấp 2 đặt 2 mâm chè có kích thước
bằng gỗ sơn màu đỏ.
Phía sau tường của gian này là bức cửa võng
trang trí lưỡng long chầu nguyệt, ở giữa lại viết 3 chữ hán "Đức lưu
quang" như ở xà thượng của gian giữa nhà Bái đường.
Ngoài hai công trình kiến trúc chính là nhà Bái
đường và nhà Hậu cung, trong khuôn viên di tích còn có nhà Tả vu và Hữu vu. Nhà
Tả vu có 6 gian, xây tường bít đốc, lợp ngói âm dương, kết cấu kiểu tứ trụ. Hai
gian hai bên xây tường, phía trước có cửa sổ, cửa ra vào theo kiểu cửa pano,
hai đầu hồi nhà có trổ hai cửa chớp, mỗi cửa hai cánh.
Cũng giống nhà Tả vu, nhà Hữu vu có 6 gian, 5
vì, kết cấu kiểu tứ trụ, chồng giường, hai đầu hồi trổ hai cửa chớp, cửa trước
trên chớp, dưới pano.
Qua tham quan tìm hiểu và được nghe giới thiệu,
du khách có thể nhận thấy, đình Mõ là một công trình kiến trúc cổ, có giá trị
to lớn về lịch sử, về khoa học và nghệ thuật. Đó là đình được xây dựng cách đây
khoảng hơn 100 năm để làm nơi sinh hoạt văn hóa và thờ các vị Thành hoàng làng,
những người có công với quê hương đất nước; đình là nơi đóng quân của Nguyễn
Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã trong phong trào Cần Vương; trong những năm 1945-1946,
đình là nơi tổ chức giành chính quyền và là địa điểm mở lớp học đầu tiên trong
bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ của xã Giai Lạc. Về giá trị khoa học, đình là
nơi lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật là tư liệu quý cho mọi người nghiên cứu và
học tập. Giá trị nghệ thuật được thể hiện rõ nét ở kỹ thuật điêu khắc đã đạt
đến trình độ tinh xảo, vừa phản ánh hơi thở cuộc sống lúc bấy giờ, vừa thể hiện
khát vọng hướng thiện mai sau.
Với những giá trị về lịch sử, khoa học, nghệ
thuật, năm 2006 đình Mõ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin đã công nhận là di tích
Lịch sử - Kiến trúc Quốc gia và trở thành một trong những điểm dừng chân của du
khách khi về du lịch quê lúa Yên Thành./.